VNEEC phối hợp tổ chức hội thảo tham vấn “Đánh giá tác động đối với hoạt động giao dịch tín chỉ các-bon và kết quả giảm nhẹ từ Việt Nam ra thị trường quốc tế”

21-08-2025

 23 views

 23 views

Ngày 20/8/2025 tại Hà Nội, Công ty Cổ phần Tư vấn Năng lượng và Môi trường (VNEEC) phối hợp cùng Công ty TNHH Kiến Tạo Khí Hậu Xanh, Tập đoàn South Pole tổ chức hội thảo tham vấn “Đánh giá tác động đối với hoạt động giao dịch tín chỉ các-bon và kết quả giảm nhẹ từ Việt Nam ra thị trường quốc tế”. Hội thảo tham vấn này nằm trong khuôn khổ Hỗ trợ kỹ thuật “Đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon tại Việt Nam”, do Văn phòng Dự án Liên Hợp Quốc (UNOPS) tài trợ thông qua Chương trình Đối tác chuyển đổi năng lượng Đông Nam Á (ETP),  nhằm hỗ trợ Cục Biến đổi Khí hậu (BĐKH), Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NNMT) trong việc phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam. 

Hội thảo nhận được sự quan tâm của hơn 100 đại biểu tham dự trực tiếp và trực tuyến, trong đó có lãnh đạo Cục Biến đổi khí hậu (BĐKH), Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các đại biểu đến từ Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các tổ chức quốc tế, các trường đại học, viện nghiên cứu, đại diện các doanh nghiệp phát thải lớn, các đơn vị tư vấn phát triển dự án tín chỉ các-bon và xúc tiến giao dịch tín chỉ các bon quốc tế.

Ảnh: Đại biểu tham dự hội thảo

Phát biểu khai mạc tại hội thảo, Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục BĐKH, cho biết khung pháp lý về thị trường các-bon đã từng bước được hoàn thiện. Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 lần đầu tiên quy định về “Tổ chức và phát triển thị trường các-bon” tại Điều 139. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP và sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 119/2025/NĐ-CP, trong đó đặt ra lộ trình cụ thể phát triển thị trường các-bon với giai đoạn thí điểm từ nay đến hết năm 2028 và vận hành chính thức từ năm 2029, hướng tới mục tiêu thí điểm sàn giao dịch các-bon ngay trong năm 2025. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Thành lập và phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam” đã cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để đưa thị trường các-bon vào vận hành theo đúng lộ trình đã đề ra. Đối với hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon và dự kiến trình Chính phủ ban hành trong năm 2025, với lộ trình thí điểm từ nay đến hết năm 2028 và vận hành chính thức từ năm 2029. 

Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục BĐKH

Trong thời gian qua, Văn phòng UNOPS, thông qua Chương trình ETP, đã hỗ trợ kỹ thuật cho Cục BĐKH trong việc đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải và tín chỉ các-bon. Kết quả nghiên cứu là cơ sở quan trọng để Bộ NNMT hoàn thiện dự thảo Nghị định.

Đại diện nhà tài trợ, ông John Robert Cotton, Phó Giám đốc ETP, đã nhấn mạnh vai trò của thị trường các-bon như một công cụ quan trọng trong ứng phó biến đổi khí hậu, từ Cơ chế phát triển sạch của Nghị định thư Kyoto đến các cơ chế của Thỏa thuận Paris. Hiện nay, hơn 70 sáng kiến định giá các-bon đã được triển khai hoặc xây dựng trên toàn cầu, bao phủ gần 1/4 lượng phát thải khí nhà kính.

Ông John cho rằng việc tham gia giao dịch các-bon quốc tế không chỉ là tuân thủ mà còn là cơ hội để Việt Nam huy động tài chính khí hậu, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và tiến tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. 

Tại hội thảo, ông Nguyễn Thành Công, Phó trưởng phòng, Phòng thị trường các-bon, đại diện Cục BĐKH đã cập nhật về các quy định và lộ trình giao dịch kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon. Theo ông, hiện dự thảo quy định về trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon đang được xây dựng, nhằm quy định việc trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon giữa Việt Nam và các đối tác quốc tế. Theo dự thảo, quy định về chuyển giao quốc tế bao gồm các cơ chế chính: Trong khuôn khổ Điều 6.2 và ngoài khuôn khổ Điều 6.2 (bao gồm Chương trình, dự án Điều 6.4 và Chương trình, dự án tiêu chuẩn các-bon độc lập). Bên cạnh đó, dự thảo cũng đã đưa ra các quy định liên quan đến trách nhiệm thực hiện chuyển giao quốc tế và quy định điều chỉnh tương ứng.

Bà Roxanne Tan, Chuyên gia về thị trường các-bon quốc tế, Tập đoàn South Pole đã chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về quản lý tín chỉ các-bon, rút ra những bài học quan trọng cho Việt Nam trong quá trình tham gia thị trường này. Bà nhấn mạnh rằng một khung quản lý mạnh mẽ cần đảm bảo minh bạch, khả năng dự đoán và sự gắn kết chặt chẽ với mục tiêu NDC, đồng thời tối ưu hóa lợi ích kinh tế từ tín chỉ các-bon. Dựa trên nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế từ các quốc gia như Ghana, Rwanda, Thái Lan, Campuchia và Chile, các quốc gia này đã áp dụng phương pháp quản lý Điều 6 như: xây dựng khung pháp lý Điều 6, triển khai hệ thống đăng ký, tận dụng các tiêu chuẩn tạo tín chỉ hiện có; xác định các hoạt động đủ điều kiện, áp dụng cơ chế giữ lại một phần kết quả giảm nhẹ để tránh bán quá mức, và trong một số trường hợp áp dụng phí điều chỉnh tương ứng (Corresponding Adjustment – CA) hoặc chia sẻ lợi nhuận cho các nỗ lực giảm nhẹ, thích ứng và phát triển bền vững. Bà Roxanne cũng chỉ ra rằng nhu cầu tín chỉ các-bon quốc tế đang tăng mạnh, đến từ các chính phủ, doanh nghiệp, cũng như các hãng hàng không trong khuôn khổ CORSIA, mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam. Tuy nhiên, để tận dụng được cơ hội này, Việt Nam cần sớm xác định danh mục các hoạt động đủ điều kiện, tỷ lệ kết quả giảm nhẹ được giữ lại để thực hiện NDC trong nước, cơ chế phí điều chỉnh tương ứng, cùng với chiến lược dài hạn cho giai đoạn sau 2030 nhằm đảm bảo tính khả thi tài chính và thu hút đầu tư. Một cơ chế quản lý minh bạch, rõ ràng và ổn định sẽ là chìa khóa để nâng cao niềm tin của nhà đầu tư, định hình giá trị tín chỉ Việt Nam trên thị trường toàn cầu và góp phần thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050.

Bà Roxanne Tan, Chuyên gia về thị trường các-bon quốc tế, đại diện South Pole

Bà Nguyễn Hồng Loan, Trưởng nhóm Dự án/Chuyên gia chính sách khí hậu, Công ty TNHH Kiến Tạo Khí Hậu Xanh, đã trình bày về các phương án quản lý giao dịch tín chỉ các-bon và kết quả giảm nhẹ từ Việt Nam ra thị trường quốc tế.

Bà Nguyễn Hồng Loan, Giám đốc Công ty TNHH Kiến Tạo Khí Hậu Xanh, Trưởng nhóm Dự án, Chuyên gia chính sách khí hậu

Theo đó, nghiên cứu đã xây dựng và đánh giá 9 kịch bản dựa trên hai yếu tố chính – Danh mục các hoạt động đủ điều kiện để được chấp thuận chuyển giao quốc tế và Tỷ lệ kết quả giảm nhẹ giữ lại để đảm bảo mục tiêu NDC quốc gia. Về nguồn cung, nghiên cứu xem xét hai phương án: (i) kịch bản S20 chỉ cho phép giao dịch tín chỉ từ 20 biện pháp giảm nhẹ đóng góp hoàn toàn cho mục tiêu NDC có điều kiện, và (ii) kịch bản S56 mở rộng cho 56 biện pháp đóng góp cho cả mục tiêu NDC có điều kiện và không điều kiện. Tương ứng với đó, hạn mức giao dịch được thiết lập là 90% đối với kịch bản S20, và hai mức 70% hoặc 50% đối với kịch bản S56 nhằm quản lý rủi ro bán quá mức và đảm bảo mục tiêu NDC quốc gia. Giá được xác định là một trong những yếu tố then chốt ảnh hưởng đến kết quả đánh giá tác động của các kịch bản. Các mức giá được phân thành ba khoảng: cao, trung bình, và thấp cho từng nhóm người mua. Các khoảng giá này được thể hiện trực tiếp trong bảng và hình minh họa kết quả, phản ánh sự biến động tiềm ẩn của thị trường.

Bên cạnh đó, các yếu tố quan trọng khác như  thứ tự ưu tiên đối tác mua, cơ chế thuế và phí giao dịch cũng được lồng ghép vào từng kịch bản. Cụ thể, nghiên cứu đã áp dụng thứ tự ưu tiên mua tín chỉ dựa trên mức độ hợp tác của đối tác (ví dụ: đối tác có thỏa thuận hợp tác được ưu tiên trước) và nhu cầu thị trường (như CORSIA), kết hợp với ba khoảng giá (thấp, trung bình, cao) cho từng bên mua để phản ánh sự biến động của thị trường. Đồng thời, các yếu tố tài chính như Thuế thu nhập doanh nghiệp 20%, thuế VAT 10% và phí giao dịch 2% trên doanh thu cũng được tích hợp để đánh giá tác động một cách toàn diện. 

Về kết quả đánh giá tác động của các kịch bản này, ông Hồ Công Hòa, chuyên gia về đánh giá tác động, Học viện Chính sách và Phát triển, cho biết: “Lợi ích kinh tế, xã hội đạt tối ưu trong kịch bản mở rộng danh mục biện pháp S56 đủ điều kiện để được chấp thuận chuyển giao quốc tế. Trong kịch bản này, lợi ích kinh tế từ giao dịch tín chỉ các-bon có thể đóng góp trung bình 0,43%/năm giai đoạn 2025–2030, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng đầu tư, tiêu dùng và việc làm”.

Ông Hòa nhấn mạnh, việc mở rộng giao dịch quốc tế cũng tiềm ẩn rủi ro “bán quá mức”. Do đó, cần đặt hạn mức giao dịch để bảo đảm yêu cầu điều chỉnh tương ứng theo Thỏa thuận Paris và đóng góp vào mục tiêu NDC của Việt Nam. Nếu giữ lại 50% tín chỉ, Việt Nam có thể đảm bảo tới 62% mục tiêu NDC không điều kiện; trong khi nếu giữ lại 30%, tỷ lệ đóng góp là 37,3%.

Ông Hồ Công Hòa, chuyên gia về đánh giá tác động, Học viện Chính sách và Phát triển

Các chuyên gia cũng khuyến nghị Việt Nam nên áp dụng lộ trình từng bước, khởi đầu với mức trần giao dịch thận trọng 50%. Khi năng lực giảm phát thải khí nhà kính trong nước được củng cố và mức độ tin cậy vào khả năng hoàn thành mục tiêu không điều kiện gia tăng, mức trần giao dịch có thể nâng lên 70% để hiện thực hóa toàn bộ mục tiêu NDC có điều kiện với sự hỗ trợ quốc tế. Bên cạnh đó, nên áp dụng mức phí giao dịch hợp lý khoảng 2% nhằm tăng nguồn thu ngân sách từ thị trường các-bon. Nguồn thu này cần được tái đầu tư vào các lĩnh vực khó giảm phát thải như nông nghiệp và lâm nghiệp để đảm bảo công bằng và nâng cao hiệu quả giảm phát thải tổng thể.

Ngoài ra, cần cân nhắc các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các biện pháp tạo tín chỉ trong các lĩnh vực ưu tiên để vừa đóng góp tối đa vào các mục tiêu NDC, vừa giảm nhẹ rủi ro biến động giá trên thị trường, qua đó nâng cao tính cạnh tranh của tín chỉ các-bon Việt Nam trong giao dịch quốc tế.

 24 views,  24 

Bài viết liên quan

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *