Vào ngày 23/09/2025 tại Hà Nội, Công ty Cổ phần Tư vấn Năng lượng và Môi trường (VNEEC) phối hợp đã phối hợp cùng Công ty TNHH Kiến Tạo Khí Hậu Xanh (GreenCIC), Tập đoàn South Pole tổ chức Hội thảo tổng kết: “Đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS) và tín chỉ các-bon tại Việt Nam”. Hội thảo tổng kết nằm trong khuôn khổ Hỗ trợ kỹ thuật “Đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon tại Việt Nam”, do Văn phòng Dự án Liên Hợp Quốc (UNOPS) tài trợ thông qua Chương trình Đối tác chuyển đổi năng lượng Đông Nam Á (ETP), nhằm hỗ trợ Cục Biến đổi Khí hậu (Cục BĐKH), Bộ Nông nghiệp và Môi trường (Bộ NN&MT) trong việc phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam. Sự kiện quy tụ đại diện các cơ quan quản lý, tổ chức nghiên cứu, chuyên gia trong nước và quốc tế nhằm chia sẻ kết quả hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm quốc tế và thảo luận định hướng phát triển tiếp theo của thị trường các-bon Việt Nam.
Đại biểu tham dự Hội thảo
Trong bài phát biểu khai mạc, ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục BĐKH, Bộ NN&MT, cho biết ETS và các công cụ định giá các-bon đang là xu thế toàn cầu giúp các quốc gia thực hiện Thỏa thuận Paris. Theo Ngân hàng Thế giới, đến năm 2025, đã có 37 hệ thống ETS hoạt động, bao phủ 23% lượng phát thải toàn cầu, mang lại doanh thu 69,1 tỷ USD. Đối với Việt Nam, ETS đang được từng bước triển khai nhằm thực hiện cam kết NDC và Net Zero 2025, dựa trên khung pháp lý gồm Luật Bảo vệ Môi trường, Nghị định 06 và 119, cùng lộ trình thí điểm đến năm 2028, vận hành chính thức vào năm 2029. Ông nhấn mạnh, Hội thảo là dịp tổng kết kết quả hỗ trợ kỹ thuật, trao đổi khuyến nghị chính sách, học hỏi kinh nghiệm quốc tế phục vụ giai đoạn thí điểm sắp tới.
Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục BĐKH, Bộ NN&MT
Đại diện Cục BĐKH, Bộ NN&MT, ông Phạm Nam Hưng đã trình bày về khung chính sách và lộ trình phát triển thị trường các-bon của Việt Nam. Sau khi giới thiệu các khái niệm nền tảng về thị trường các-bon, vai trò và ý nghĩa của cơ chế này trong việc giảm phát thải khí nhà kính, ông tổng hợp khung pháp lý hiện hành, bao gồm Luật Bảo vệ Môi trường 2020, Nghị định 06/2022 và Nghị định 119/2025. Theo ông Hưng, giai đoạn thí điểm thị trường các-bon sẽ được triển khai từ 2025 đến 2028, tiến tới vận hành chính thức sau năm 2030 với các công cụ quản lý chủ chốt như hạn ngạch phát thải, tín chỉ các-bon, sàn giao dịch nội địa và các cơ chế hợp tác theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris.
Ông Phạm Nam Hưng, đại diện Cục BĐKH – Bộ NN&MT
Bà Nguyễn Hồng Loan, Trưởng nhóm tư vấn/Chuyên gia chính sách khí hậu, Giám đốc GreenCIC đã trình bày kết quả nghiên cứu thuộc chương trình hỗ trợ kỹ thuật triển khai từ tháng 9/2024 đến tháng 9/2025 cùng ông Hồ Công Hòa, Chuyên gia đánh giá tác động, Học viện Chính sách và Phát triển.
Bà Nguyễn Hồng Loan, Trưởng nhóm tư vấn/Chuyên gia chính sách khí hậu, Giám đốc GreenCIC
Báo cáo tập trung phân tích sự tương tác giữa các phương án quản lý hệ thống ETS trong nước và cơ chế giao dịch tín chỉ các-bon quốc tế. Nhóm nghiên cứu đã mô phỏng nhiều kịch bản khác nhau, bao gồm phạm vi áp dụng, phương thức thiết lập và phân bổ hạn ngạch, cũng như tỷ lệ cho phép sử dụng tín chỉ bù trừ. Ngoài ra, nhóm cũng đánh giá tác động kinh tế – xã hội của các kịch bản, từ chi phí tuân thủ của doanh nghiệp, tác động đến GDP, tiêu dùng hộ gia đình, đến tiềm năng doanh thu từ thị trường quốc tế. Các khuyến nghị chính sách được đưa ra hướng tới đảm bảo cân bằng giữa lợi ích kinh tế và toàn vẹn môi trường, đồng thời yêu cầu nâng cao năng lực thể chế để vận hành thị trường hiệu quả, minh bạch.
Ông Hồ Công Hòa, Chuyên gia đánh giá tác động, Học viện Chính sách và Phát triển
Ông Robert Ritz, chuyên gia kinh tế từ Đại học Cambridge, đã trình bày bài học kinh nghiệm quốc tế về thiết kế và vận hành ETS. Ông cung cấp bức tranh toàn cầu về định giá các-bon đến năm 2030, dự báo giá các-bon có thể tăng gấp đôi cùng với sự mở rộng của các hệ thống ETS và cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM). Theo TS. Ritz, Việt Nam cần theo dõi và đánh giá chặt chẽ cơ chế giá sàn – trần, phạm vi ngành áp dụng, phương thức phân bổ hạn ngạch, cũng như cách sử dụng nguồn thu từ đấu giá để hỗ trợ quá trình chuyển đổi xanh. Đồng thời, ông lưu ý về tác động từ cơ chế CBAM của Liên minh châu Âu, cho rằng Việt Nam nên chủ động chuẩn bị và cân nhắc khả năng xây dựng một cơ chế tương tự ở khu vực nhằm bảo vệ năng lực cạnh tranh công nghiệp.
Bà Marianne Tan, Phó Giám đốc phụ trách Chính sách và Chiến lược khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Tập đoàn South Pole, đã chia sẻ kinh nghiệm quốc tế và các bước tiếp theo trong quản lý giao dịch tín chỉ các-bon. Bà nhấn mạnh vai trò then chốt của quốc gia chủ nhà theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris, trong đó Chính phủ cần đảm nhiệm bốn nhiệm vụ trọng tâm: thiết lập khung thể chế rõ ràng; xác định ưu tiên quốc gia; xây dựng quy trình phê duyệt minh bạch; và hoàn thiện các yêu cầu kỹ thuật – hạ tầng cần thiết. Theo bà, một khung vận hành hiệu quả chỉ có thể đạt được khi đi kèm cơ chế chia sẻ lợi ích công bằng, hệ thống đăng ký quốc gia liên thông quốc tế, và năng lực giám sát – báo cáo được tăng cường, từ đó tạo dựng niềm tin với các đối tác.
Ông Robert Ritz – chuyên gia kinh tế từ Đại học Cambridge và bà Marianne Tan – Phó Giám đốc phụ trách Chính sách và Chiến lược khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Tập đoàn South Pole
Bế mạc Hội thảo, ông Đỗ Mạnh Toàn, Điều phối quốc gia, ETP, đã tổng kết hoạt động hỗ trợ kỹ thuật “Đánh giá tác động của thị trường các-bon trong nước và phương án giao dịch tín chỉ các-bon ra thị trường quốc tế”. Ông nhấn mạnh ba giá trị nổi bật của chương trình sau gần một năm triển khai: cung cấp cơ sở khoa học và bằng chứng định lượng phục vụ xây dựng chính sách; giúp Việt Nam nhận diện cơ hội và thách thức khi tham gia thị trường tín chỉ các-bon toàn cầu; và nâng cao năng lực và thúc đẩy sự tham gia của các bên liên quan.
Ông Toàn đồng thời ghi nhận vai trò chỉ đạo của Cục BĐKH là yếu tố quan trọng bảo đảm thành công của chương trình, và khẳng định ETP sẽ tiếp tục đồng hành cùng Bộ NN&MT trong giai đoạn tới, thông qua nghiên cứu, hoàn thiện khung pháp lý, hỗ trợ doanh nghiệp và tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 của Việt Nam.
Ông Đỗ Mạnh Toàn, Điều phối quốc gia, ETP
Cuối buổi Hội thảo, các đại biểu đã cùng thảo luận sôi nổi, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện khung pháp lý, củng cố hạ tầng và nâng cao năng lực quản lý để Việt Nam sẵn sàng hội nhập sâu vào thị trường các-bon quốc tế.
Với vai trò là đơn vị tham gia thực hiện Hỗ trợ kỹ thuật, VNEEC đã góp phần quan trọng trong việc kết nối chuyên gia, chia sẻ kết quả nghiên cứu và thúc đẩy đối thoại chính sách, qua đó đóng góp thiết thực cho tiến trình phát triển thị trường các-bon và mục tiêu chuyển đổi xanh của Việt Nam.
38 views, 38
Tags:
Bài viết liên quan