Ngày 15/09/2025 tại Hà Nội, đại diện VNEEC đã tham gia Hội thảo quốc gia với chủ đề: “Hoạt động bảo vệ tầng ô-dôn hướng tới chuyển đổi xanh: Thúc đẩy hợp tác liên chính phủ, hợp tác công tư” do Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) tổ chức.
Hội thảo do Thứ trưởng Bộ NN&MT Lê Công Thành chủ trì, với sự góp mặt của đại diện Quỹ Đa phương, các cơ quan quản lý thuộc bộ, ngành, địa phương; các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, UNEP, ETP, GGGI, UNDP, ADB, GIZ…; các viện nghiên cứu, trường đại học, chuyên gia và doanh nghiệp trong các lĩnh vực liên quan.
Phát biểu khai mạc chương trình, Thứ trưởng Lê Công Thành nhấn mạnh, sau 40 năm thực hiện Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal, thế giới đã loại trừ 99% các chất gây suy giảm tầng ô-dộn và giảm đáng kể phát thải khí nhà kính (KNK). Việt Nam cũng đạt được nhiều thành quả ấn tượng như loại trừ khoảng 240 triệu tấn CO₂, hoàn thiện chính sách pháp luật và hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ thân thiện với khí hậu. Ông khẳng định đây là minh chứng cho cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong bảo vệ tầng ô-dôn gắn với mục tiêu chuyển đổi xanh.
Ảnh: Ông Lê Công Thành – Thứ trưởng Bộ NN&MT
Bà Tina Chondraki Birmpili, Trưởng Ban điều hành Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư Montreal, đánh giá cao sự hợp tác lâu dài với Việt Nam, khi hai bên đã có 90 dự án được phê duyệt thực hiện với tổng giá trị là 30 triệu USD. Bà cho biết Quỹ đang tiếp tục hỗ trợ Việt Nam triển khai Kế hoạch hành động theo Bản sửa đổi Kigali, tập trung vào giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Trong phiên đầu tiên của hội thảo, ông Lê Ngọc Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (BĐKH), Bộ NN&MT đã chia sẻ về nỗ lực và kết quả của Việt Nam trong công tác bảo vệ tầng ô-dôn. Ông cho biết, cho đến năm 2045, việc thực hiện Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất được kiểm soát dự kiến sẽ giúp Việt Nam giảm hơn 11 triệu tấn CO₂. Con số này sẽ còn tăng thêm nhiều lần nếu kết hợp cùng các biện pháp bổ sung như quản lý thiết bị, tái chế môi chất lạnh và làm mát bền vững. Các hoạt động trên không chỉ gắn với mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, mà còn mở ra cơ hội tham gia thị trường các-bon và huy động nguồn lực quốc tế cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
Ảnh: Ông Lê Ngọc Tuấn, Phó Cục trưởng Cục BĐKH, Bộ NN&MT
Ông Viraj Vithoontien, Chuyên gia cao cấp Ngân hàng Thế giới (WB) đã giới thiệu dự án SMS-MP về kế hoạch quản lý, loại trừ các chất HCFC theo Nghị định thư Montreal giai đoạn III và các chất HFC theo Bản sửa đổi, bổ sung Kigali giai đoạn I. Dự án có tổng kinh phí hơn 12 triệu USD, tập trung tăng cường đào tạo kỹ thuật viên; hỗ trợ hải quan giám sát; đồng thời thúc đẩy thu hồi, tái chế và tái sử dụng môi chất lạnh, qua đó giúp cắt giảm hàng triệu tấn CO₂ tương đương mỗi năm.
Tiếp theo sau đó, ông John Robert Cotton, Phó Giám đốc Chương trình Đối tác Chuyển dịch Năng lượng Đông Nam Á (ETP) chia sẻ về Kế hoạch quốc gia về làm mát bền vững. Ông cho biết nhu cầu làm mát tại Việt Nam tăng nhanh do đô thị hóa và BĐKH, dự kiến đến năm 2030 sẽ chiếm gần 10% tổng phát thải quốc gia. Kế hoạch làm mát hướng tới nâng cao hiệu suất năng lượng, chuyển đổi môi chất lạnh, tích hợp giải pháp làm mát thụ động và đồng bộ hóa lộ trình khí hậu với mục tiêu quốc gia. Nếu triển khai thành công, đến năm 2050, kế hoạch có thể giúp tiết kiệm hơn 800 TWh điện và giảm mạnh phát thải KNK.
Trong phiên II của hội thảo, Ông Makoto Kato, Cố vấn trưởng Trung tâm Hợp tác Môi trường Hải ngoại Nhật Bản (OECC) có phần phát biểu về quản lý vòng đời các chất làm lạnh và công cụ theo dõi kỹ thuật số (RefNext). Ông nhấn mạnh việc thu hồi, tái chế, tái sử dụng và tiêu hủy đúng cách các môi chất lạnh sẽ giúp giảm phát thải đáng kể, đồng thời giới thiệu hệ thống MRV và theo dõi điện tử nhằm hỗ trợ Việt Nam thực hiện cam kết theo Bản sửa đổi Kigali.
Ảnh: Ông Makoto Kato, Cố vấn trưởng OECC
Ông Juhern Kim, Trưởng đại diện quốc gia tại Việt Nam, Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI) tập trung chia sẻ về nguồn lực tài chính cho làm mát bền vững. Ông cho rằng, nhu cầu làm mát gia tăng vừa là thách thức, vừa là cơ hội để huy động vốn xanh, thông qua các mô hình tài chính đổi mới như trái phiếu xanh, dịch vụ làm mát (CaaS) hay cơ chế chia sẻ rủi ro. Những giải pháp này sẽ giúp mở rộng quy mô các dự án thí điểm thành triển khai toàn diện, thu hút nguồn vốn quốc tế và thúc đẩy các mô hình kinh doanh bền vững.
Đại diện các doanh nghiệp cũng chia sẻ những sáng kiến trong thu gom, tái chế và tái sử dụng các chất được kiểm soát tại Việt Nam. Ông Matsumoto Yosuke, Giám đốc Công ty CP Daikin Air Conditioning và ông Hata Hirotaka, Giám đốc Công ty TNHH MZ Vina đã giới thiệu về các giải pháp này.
Mở đầu phiên chiều, ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục BĐKH, cho biết Việt Nam sẽ tiếp tục triển khai Kế hoạch quản lý loại trừ HCFC giai đoạn 3, song song với giảm phát thải HFC theo lộ trình, đồng thời xây dựng Chương trình làm mát bền vững làm định hướng dài hạn cho chuyển đổi xanh. Ông nhấn mạnh rằng, Việt Nam luôn tuân thủ đầy đủ các cam kết quốc tế và đang nhận được sự hỗ trợ tích cực từ các tổ chức quốc tế, trong khi nhiều doanh nghiệp trong nước cũng đã chủ động đầu tư công nghệ mới.
Ảnh: Ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục BĐKH
Bà Nguyễn Đặng Thu Cúc, Phó Trưởng phòng Quản lý phát thải KNK và Bảo vệ tầng ô-dôn, Cục BĐKH đã trình bày quy định đăng ký và báo cáo sử dụng các chất được kiểm soát. Các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu và sử dụng thiết bị có chứa môi chất lạnh đều phải thực hiện đăng ký một lần và báo cáo hằng năm qua cổng dịch vụ công.
Tiếp đó, ông Pipat Poopeerasupong, Điều phối viên khu vực Châu Á – Thái Bình Dương hỗ trợ tuân thủ Nghị định thư Montreal, UNEP, đã hướng dẫn doanh nghiệp khai báo hải quan đối với các chất được kiểm soát, lưu ý về việc ghi mã HS, mô tả hàng hóa, số hiệu ASHRAE và khối lượng tịnh để tránh sai sót. Ông nhấn mạnh khai báo chính xác là yếu tố then chốt để Việt Nam thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quốc tế theo Nghị định thư Montreal.
Đặc biệt, bà Đặng Hồng Hạnh, Giám đốc điều hành Công ty Cổ phần Tư vấn Năng lượng và Môi trường (VNEEC) đã chia sẻ về tiếp cận dựa trên thị trường đối với các chất làm suy giảm tầng ô-dôn và KNK có tiềm năng làm nóng lên toàn cầu cao. Hiện tại, lĩnh vực làm mát ở Việt Nam đang phát triển rất nhanh và có nhiều tiềm năng để áp dụng cơ chế tín chỉ các-bon. Theo bà, nếu các hoạt động nâng cao hiệu suất điều hòa hay thu hồi, tái chế môi chất lạnh được ghi nhận và chuyển đổi thành tín chỉ các-bon, doanh nghiệp không chỉ góp phần bảo vệ môi trường mà còn có thêm nguồn tài chính để đầu tư công nghệ mới. Đây là cách tiếp cận giúp gắn lợi ích môi trường với lợi ích kinh tế, từ đó khuyến khích nhiều doanh nghiệp tham gia hơn.
Ảnh: Bà Đặng Hồng Hạnh, Giám đốc điều hành VNEEC
Bà Hạnh cũng chỉ ra những khó khăn như chưa có hướng dẫn và phương pháp cụ thể cho nhiều hoạt động, chi phí đầu tư ban đầu còn cao và việc huy động vốn còn hạn chế. Để giải quyết vấn đề này, bà đề xuất cần triển khai một số dự án thí điểm nhằm chứng minh tính khả thi, từ đó tạo cơ sở thực tế để nhân rộng cho các ngành và doanh nghiệp khác. Ngoài ra, cần có hệ thống MRV rõ ràng, cũng như khung chính sách và tài chính phù hợp để thu hút thêm nhà đầu tư.
Ông Han-soo Pyoo, Quản lý dự án Công ty EcoEye cũng trình bày về công nghệ tái chế và tiềm năng bù trừ tín chỉ các-bon đối với các chất được kiểm soát. Nội dung tập trung vào kinh nghiệm quản lý, thu hồi và tái chế chất làm lạnh tại Hàn Quốc, các nghiên cứu điển hình trong việc tạo tín chỉ các-bon từ tái chế và tiêu hủy ODS, cũng như khả năng ứng dụng mô hình này tại Việt Nam.
Ảnh: Các chuyên gia tham dự Hội thảo
Cuối hội thảo, các chuyên gia đã cùng trao đổi và thảo luận về những nội dung liên quan đến hoạt động bảo vệ tầng ô-dôn. Là đơn vị tư vấn hàng đầu trong lĩnh vực này, VNEEC sẽ tiếp tục đồng hành với các cơ quan quản lý, tổ chức quốc tế và doanh nghiệp, góp phần thực hiện hóa mục tiêu chuyển đổi xanh mà Việt Nam đã đề ra.
318 views, 37
Tags:
Bài viết liên quan